20 thg 2, 2013

Tư duy đột phá

Khái niệm

Hãy tư duy thông minh hơn, mà không phải mất nhiều công sức!
Tư duy phân tíchtư duy phê phán đã có khoảng 500 năm trước công nguyên. Hai loại tư duy này chủ yếu là dựa vào thực tiễn quá khứ và dữ liệu hiện tại để phân tích thực trạng, tìm ra vấn đề và đưa ra cách giải quyết vấn đề - thường được gọi là tư duy Descartes. Một nguyên tắc của tư duy phân tích phê phán là càng nhiều dữ liệu càng tốt.
Lý thuyết về Tư duy đột phá do Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Shozo Hibino Đại học Chukyo, Nhật Bản và Giáo sư Tiến sĩ Gerald Nadler, Đại học Nam California, Hoa Kỳ cùng tổng hợp biên soạn trong cuốn sách Tư duy Đột phá đúc kết kinh nghiệm thực tiễn từ 30 năm nghiên cứu về cách thức xử lý vấn đề.
Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức. Trong kinh tế tri thức thì đổi mới sáng tạo là chìa khóa để thành công. Chúng ta không thể cải tiến đèn dầu để có đèn neon, không thể cải tiến tàu cao tốc thành máy bay. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề mới bằng tư duy cũ, bằng chuẩn mực cũ. Từ những năm cuối của thế kỷ 20, thế giới đang chuyển sang một trào lưu mới: tư duy đột phá (Breakthrough Thinking). Các Trung tâm Tư duy đột phá được thành lập ở một số nước trên thế giới.
Đột phá có nghĩa là: Đó là một sáng kiến bất ngờ, một khoảnh khắc bừng sáng của trí tuệ hoặc một sự vỡ ra một điều gì đó thật thú vị. Đó là một giải pháp mang lại một kết quả lớn hơn, một ý nghĩa lớn hơn. Đột phá tức là biến sáng kiến thành thực tế. Theo kinh nghiệm của nhà nghiên cứu, 5-8% chúng ta là có khả năng đột phá, vì thế không có gì có thể ràng buộc tư duy đột phá.

Nguyên tắc cơ bản

Tư duy đột phá dựa trên 7 nguyên tắc cơ bản:
1. Tính duy nhất: mỗi vấn đề là duy nhất và yêu cầu giải pháp duy nhất, tuyệt đối không bắt chước. Hay nguyên tắc "Sự khác nhau độc đáo": Những người có các giải pháp xuất sắc nhất thường không cố gắng xem những người khác đã làm gì với những vấn đề tương tự; họ không sao chép hay nhân bản giải pháp của người khác để áp dụng vào tình huống của mình.
2. Mục đích tối thượng: tập trung vào mục đích và triển khai mục đích bằng câu hỏi "Mục đích của mục đích, của mục đích… là gì”) để tìm ra mục đích sau cùng, mở rộng các chiều (không gian, thời gian) để giải quyết vấn đề. Hay nguyên tắc "Triển khai mục đích".
3. Giải pháp sau giải pháp tiếp theo: định ra giải pháp tương lai để chỉ hướng cho giải pháp hiện tại, đặt nó trong tổng thể của giải pháp lớn hơn.
4. Thiết lập hệ thống: xét giải pháp trong tổng thể, trong mối liên hệ tới các vấn đề khác.
5. Thu thập thông tin tối thiểu (có giới hạn): có nhiều thông tin sẽ tạo nên kiến thức chuyên gia, nhưng quá nhiều thông tin chính là một cách hạn chế khả năng giải quyết vấn đề.
6. Lôi cuốn tham gia của số đông: tạo sự phấn khởi, kích thích và kêu gọi mọi người cùng tham gia vào kế hoạch.
7. Thay đổi và cải cách liên tục: trong lúc đang hoàn thiện giải pháp mới, tiếp tục định ra giải pháp tiếp theo để tính đổi mới được liên tục.
Khi thực hiện, không cần đồng thời cả 7 nguyên tắc, nhưng cần thiết phải thấm nhuần cả 7 nguyên tắc, và luôn áp dụng ít nhất 2 nguyên tắc cơ bản vào giải quyết mọi vấn đề, đó là nguyên tắc về sự khác nhau độc đáo và nguyên tắc Triển khai mục đích.
Với Nhật bản, suốt thập niên 70 của TK20 là thời đại của 3C: sao chép, kiểm soát và dượt đuổi (Copy, Control and Chase). Sang thập niên 80, đã có bước thay đổi nhanh chóng của thời đại 3I: Bản sắc, sáng tạo và cải tiến (Identity, Imagination and Innovation).

Lợi ích

  • Nhận diện đúng vấn đề và xác định phương cách thực hiện
  • Tập trung vào các giải pháp trong tương lai, không phải vấn đề hiện tại.
  • Tháo dỡ những rào cản để tiếp cận những giải pháp đơn giản
  • Yêu cầu thu thập dữ liệu ít nhất, vì thế chữa trị được căn bệnh phân tích và mổ xẻ
  • Đưa ra những giải đáp mang lại lợi ích lớn hơn về chất lượng, lợi nhuận kinh tế và quỹ thời gian.
  • Đòi hỏi ít thời gian và chi phí hơn để tạo ra những lợi ích đó
  • Thúc đẩy tư duy sáng tạo và những thay đổi chính yếu
  • Cung cấp những giải pháp dài hạn
  • Tập trung thực hiện hiệu quả các giải pháp
  • Xây dựng những nhóm làm việc tự nhiên, lâu dài, và các mối quan hệ cá nhân
  • Sử dụng cái nhìn toàn diện chính xác trong việc giải quyết và phòng ngừa các vấn đề phát sinh.

 Tư duy đột phá tại Việt Nam

Tư duy đột phá được du nhập vào Việt Nam qua seminar đầu tiên năm 2002 của chính tác giả Shozo Hibino. Buổi thuyết trình đầu tiên này đã được tổ chức với quy mô nhỏ dành cho các thành viên của Hiệp hội tu nghiệp sinh Nhật Bản AOTS.
Năm 2005, nhân dịp đến thăm Việt Nam, GS Hibino có buổi thuyết trình thứ hai tổ chức tại KS Tân Sơn Nhất. Đây là tiền đề để đến năm 2007, 23 tu nghiệp sinh Việt Nam được gởi đến Nhật Bản tham gia khóa đào tạo Tư duy đột phá và tham quan điển hình các công ty ứng dụng mạnh và thành công BT tại Nhật. Báo chí trong nước đã có nhiều bài viết về chuyến đi này.
Từ 2007-2008, Viện Phát triển Quản trị và Công nghệ mới và bản thân các tu nghiệp sinh đã là những hạt nhân đầu tiên để mang BT đến các doanh nghiệp tại Việt Nam. Tiêu biểu là Công ty Cổ phần Đồng Tâm, Saigon Cosmetics, Cá Sấu Hoa Cà... Trong đó, đặc biệt Công ty Cổ phần Đồng Tâm đã biến Tư duy đột phá thành một nét văn hóa của Công ty với sự chỉ đạo trực tiếp của ông Võ Quốc Thắng - Chủ tịch DongTam Group. BT cũng được giới thiệu lần đầu với khối Cơ quan nhà nước bằng buổi hội thảo dành cho lãnh đạo các cơ quan công quyền tại Long An.
Năm 2009, FirstNews đã dịch cuốn sách Tư duy đột phá và phát hành tại Việt Nam với sự hiệu đính của ông Phạm Xuân Mai, người được Giáo sư Hibino dẫn dắt từ những ngày đầu du nhập Tư duy đột phá vào Việt Nam. Vào tháng 9/2009, đã có seminar về Tư duy đột phá tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2010, Đại hội thế giới lần thứ hai về tư duy sẽ được tổ chức tại Nhật Bản với trọng tâm là Tư duy đột phá. Các trung tâm Tư duy đột phá Hoa Kỳ, Nhật Bản, Israel, Hàn Quốc, Thái Lan, và Việt Nam là những thành viên đồng tổ chức Đại hội này.  (đọc bản dịch ở đây).

Sưu tầm net.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét